Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

Võ Hồng, và nỗi 'cô đơn uy nghi'


Nhà văn Võ Hồng. Ảnh: Đỗ Hồng Ngọc

Nhà văn Võ Hồng. Ảnh: Đỗ Hồng Ngọc

Trong thư gửi tôi, kèm tập thơ năm đó, ông thổ lộ: “Đọc lại văn mình moa thấy: nếu là văn xuôi thì Ngộ, còn thơ thì Ngượng. Cái gì mà yêu thương, nhớ nhung, đợi chờ… mắc cỡ thấy mồ!” Tôi hiểu ông. Bởi vì văn thì còn đổ thừa tại bị “hư cấu” nọ kia, tại bị tâm lý nhân vật này khác, chứ thơ thì hết phương… chối cãi!


Vợ mất sớm vì bệnh tim lúc ông hãy còn rất trẻ. “Một nách ba con” còn nhỏ xíu. Ông vẫn ở vậy, không tục huyền, dù không ít cô thầm thương trộm nhớ ông thầy giáo, ông nhà văn nho nhã, dễ mến. Gà trống nuôi con. Tất cả đều thành đạt. Tất cả đều học xa rồi sinh sống ở nước ngoài. Chỉ còn có ông… gà trống ngày một lớn tuổi, loay hoay một mình với cây trứng cá, cây khế và mấy gốc dừa…


Năm giờ sáng mở mắt


Nhìn quanh: chỉ ghế bàn


Thèm thấy một khuôn mặt


Thèm nghe tiếng dịu dàng


Mười giờ đêm thâm u


Bóng tối như cõi chết


Tình yêu, tìm nơi đâu


Hạnh phúc, chào vĩnh biệt


…….


Quạnh hiu. Hoang vắng. Cô đơn. Không muốn “độc cư” mà thành độc cư. Với một tâm hồn vô cùng nhạy cảm, ông héo hắt dần với tháng năm. An ủi của ông trong tuổi già là những người con đều thành đạt, hiếu thảo, nhưng vì hoàn cành riêng mà phải sống xa nhau kẻ chân trời người góc biển.


Nay các con nên người


Mỗi đứa đi một ngả


Mình cha căn nhà xưa


Trông vừa quen vừa lạ


Không còn ngày gian khổ


Chỉ dư ngày tiêu điều


Vắng con như cây cỏ


Héo úa giữa quạnh hiu









Di ngôn


Sau khi tôi chết


Xin giữ y nguyên dùm mọi dấu vết


Của những ngày u buồn trĩu nặng hồn tôi


Ðây: cây bút màu đen sớm tối không rời


Ðây: cuốn vở cất đầy những mảnh lòng hiu hắt


Kia: chồng sách không bao giờ ngăn nắp


Này: góc vườn, hoa rụng trải lối đi


Trên khung rào thưa, lá khẽ thầm thì


Nơi sân thượng xin để nguyên chiếc ghế


Kê sát lan can, hướng xuống mặt đường


Nơi những đêm dài, trong tối đầy sương


Tôi ngồi lặng, mắt chong chờ đợi


Ðợi một người đi không hẹn trở lại


Hun hút đường dài... vun vút xe qua


những dáng ngược xuôi... những cặp hẹn hò


Bầy chó lang thang... hàng cây đứng lặng


Chia sẻ nỗi niềm: từng ngôi sao xa


Người đi không về. Giờ đang nơi đâu?


Cực lạc non Bồng hay cõi Diêm phù


Ðêm trắng trải dài... Mỏi mòn đêm trắng


Canh hai... canh ba... từng canh qua mau


Cho đến một ngày kia... tôi sẽ nhẹ nhàng giã từ


Hạnh phúc yêu thương... Băng giá mây mù ...


Nhưng trên sân, chiếc ghế cô đơn uy nghi còn đó


Tiếp tục ngồi chờ, lặng lẽ chờ cho mãi đến thiên thu.



Quen biết, thân thiết với ông đã hơn 40 năm, nhưng nhớ mãi lần tôi với Nguyễn Thiện Tống đến thăm, lúc đó ông mới ngoài tuổi 70, từ trên gác lững thững xuống mở cổng, con chó ùa ra sủa ầm lên. Tôi hơi hoảng, hỏi: Chó có dữ không anh? Ông trả lời tỉnh queo: Nó còn hiền hơn moa! Lúc nào ông cũng xưng hô “toa, moa” với tôi như vậy. Rồi ông dẫn bọn tôi lên gác. Vẫn căn gác nhỏ với một phòng chừng hơn chục mét vuông, vừa là chỗ ăn chỗ ngủ, chỗ làm việc, tiếp khách… lổn nhổn những sách vở, thư từ, bản thảo… tràn lan trên bàn, trên nệm, dưới gầm. Nhờ cái sân thượng phía trước khá rộng có bóng râm cây khế, cây dừa mà ông có một khoảng không để mà trầm tư, mà hoài cố nhân… Ông khoe cái chậu nhỏ xíu trong đó có một cây gai bàn chải to bằng bàn tay. Ông nói miền quê ông đi đâu cũng gặp cây gai bàn chải mọc dọc hai bên đường. Ông nhớ nó quá nên tìm một gốc về trồng và giấu nó ở một góc sân thượng, sợ người ta trông thấy cho là lập dị! Lần đó tôi bấm cho ông mấy tấm ảnh kỷ niệm, có cảnh ông ngồi trên chiếc ghế “cô đơn uy nghi” đặt ở sân thượng, dưới tàn cây trứng cá. Lúc đó, ông mới 74 tuổi, còn hoạt bát lắm, đòi khoác áo đàng hoàng rồi mới chịu cho chụp hình.


Mỗi khi có dịp về Nha Trang tôi đều ghé thăm ông. Ông mừng lắm. Kể chuyện huyên thuyên. Có lần thấy ông treo tấm hình một cô diễn viên Hong Kong, đang định hỏi thì ông đã nói ngay: Cháu moa nó coi tivi nói cô này trông rất giống vợ moa. Mà giống thiệt nên moa mới đem treo lên đó! Ông kể năm 70 tuổi, người ta dựng một phim ngắn về ông: Thầy Võ Hồng. Ông cảm động lắm vì được trở về thăm lại chốn xưa, trường cũ, ngôi nhà thờ, ngôi chùa thân quen ngày nào... nhưng vẫn thấy ngường ngượng vì phải “đóng phim”! Khi tôi gởi ông bản thảo Già ơi... chào bạn! để nhờ ông đọc, ông cười: Sau “Già ơi chào bạn” toa sẽ viết tiếp cái gì nữa đây? Ông là vậy. Lúc nào cũng hóm hỉnh, sâu sắc mà sảng khoái trừ những lúc một mình trong nỗi “cô đơn uy nghi” nhớ đến người thân.


Những lúc sau này tôi thường phone hỏi thăm ông khoẻ không, ông nói khoẻ gì nổi, bệnh rề rề. Nhiều tuổi rồi, con ở xa, bệnh cũng làm biếng đi bệnh viện nữa. Phải nhờ người quen đưa đi khám hoài ngại quá!


Mấy năm gần đây, tình trạng sức khoẻ ông yếu dần, nằm liệt giường, được chuyển xuống tầng trệt cho tiện chăm sóc. Cô con gái lớn Diệu Hằng vẫn thường từ Pháp về thăm cha. Rồi cô lại đi, bận bịu bao điều, nhưng vẫn quán xuyến lo toan. Người con trai thứ ở Đức đã dựng riêng cho cha một trang web, tập hợp toàn bộ các tác phẩm của cha, với nhiều tài liệu quý.


Năm ngoái, có dịp ngang Nha Trang, tôi lại ghé thăm ông, bấy giờ ông đã 91 tuổi, đã dần dần khó tiếp xúc... Cô Đạm, người học trò cũ quý thương ông vẫn là người hàng ngày trực tiếp đến chăm sóc ông cùng với một người giúp việc. Ông tuy nằm liệt giường đã lâu vậy mà trông vẫn thanh mảnh, sạch sẽ lắm. Tôi cảm động nói với cô Đạm, thay mặt những bạn bè thân quen gần xa của nhà văn Võ Hồng, trân trọng cảm ơn cô.


Ông đã sẵn một bài thơ gọi là Di ngôn viết về nỗi “cô đơn uy nghi” của mình:


Cho đến một ngày kia... tôi sẽ nhẹ nhàng giã từ/Hạnh phúc yêu thương... Băng giá mây mù.../Nhưng trên sân, chiếc ghế cô đơn uy nghi còn đó/Tiếp tục ngồi chờ, lặng lẽ chờ cho mãi đến thiên thu.


Nhớ Võ Hồng, vừa thương vừa cảm, vừa xót vừa xa. Thấy trôi đi một kiếp nhân sinh phù thế: Ngũ uẩn phù vân không khứ lai/ Tam độc thuỷ bào hư xuất một… (Chứng đạo ca).


Mà mừng ông nay đã vào cõi “tịch diệt vi lạc”!









Nhà văn Võ Hồng qua đời vào lúc 14 giờ chiều ngày 31.3 tại nhà riêng, hưởng thọ 92 tuổi. Ông sinh ngày 2.12.1922 (khai sinh ghi 5.5.1921) tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Năm 1940, ông đậu bằng thành chung, ra Hà Nội học tú tài. Năm 1954, ông đến Nha Trang, dạy học tại các trường trung học Lê Quý Đôn và Bồ Đề và sống ở đây đến khi qua đời. Truyện đầu tay của ông đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội) năm 1939 với bút hiệu Ngân Sơn. Một số tác phẩm đã xuất bản của Võ Hồng: Hoài cố nhân (Ban Mai, 1959), Hoa bươm bướm (Lá Bối, 1966), Người về đầu non (Văn, 1968), Gió cuốn (Lá Bối, 1968), Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965), Khoảng mát (An Tiêm, 1966), Con suối mùa xuân (Lá Bối, 1966), Bên kia đường (Mặt Trời, 1968), Trầm mặc cây rừng (Lá Bối, 1971), Áo em cài hoa trắng (Lá Bối, 1969), Trận đòn Hoà giải (Lá Bối, 1970), Xuất hành năm mới (Lá Bối, 1971) .


15 giờ chiều ngày mai (thứ năm, ngày 4.4) linh cữu nhà văn Võ Hồng sẽ được an táng tại nghĩa trang Suối Đá (xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, Khánh Hoà).



Theo SGTT







via Xã hội - Chaobuoisang.net http://chaobuoisang.net/vo-hong-va-noi-co-don-uy-nghi-1632982.htm, Theo Xã hội Blog Kênh 12

Đời sống xã hội

Đời sống xã hội